Bồ Đề Đạo Tràng – Ấn Độ: Du lịch tâm linh, di tích và huyền thoại

  • Thứ bảy, 07:56 Ngày 09/05/2020   Lượt xem: 963
  • “Tứ động tâm” là tên gọi chung cho bốn địa danh đánh dấu bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, gồm: khu vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) – nơi đức Phật đản sanh, Bodhgaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) – nơi đức Phật thành đạo, Sarnath (vườn Lộc Uyển) – nơi đức Phật giảng pháp lần đầu tiên cho nhóm  bạn đồng tu khổ hạnh với Kiều Trần Như và Kusinara (Câu Thi Na) – nơi đức Phật nhập Niết bàn. Sở dĩ có cụm từ “động tâm” – mang ý nghĩa là “làm lay động trái tim” – vì khi mọi người đến đây hành hương lễ Phật đều nhận được những cảm xúc chân thực, như có thêm nguồn lực vô hình trợ giúp vững tin khi hướng về chân lý và đạo pháp của đức Thế Tôn.

    Một điểm đến du lịch tâm linh

    Chúng tôi đáp chuyến bay nội địa của hảng hàng không Indi Go (Ấn Độ), khởi hành từ thủ đô New Delhi vào lúc 8h sáng để đến thành phố Patna, thuộc bang Bihar. Cảng hàng không Patna là sân bay nhỏ, cấp địa phương, kiến trúc nhà ga không có gì đặc sắc; mặc dù có một số đường bay thẳng quốc tế (đi hai chiều từ Nepal, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam…) nhưng chúng tôi chọn đi đường vòng đến New Dehli để có dịp lưu lại hai ngày viếng thăm một số công trình di sản văn hóa thế giới nổi tiếng khác của Ấn Độ. Từ Patna, có xe đón đưa chúng tôi đi tiếp khoảng 135km về hướng Đông Nam để đến khu Bồ Đề Đạo Tràng.

    Theo sơ đồ tổng thể được công bố tại điểm tiếp đón (Hình 1), khu Bồ Đề Đạo Tràng rộng khoảng 4,8ha, gồm các hạng mục chính: tháp Đại Giác (Hình 2) – còn gọi là Đại Bảo tháp (Great Stupa), bên trong có chùa Đại Giác Ngộ (Mahabohdi Temple), cội Bồ đề (Bodhi tree), Tòa Kim Cương (Vajirasana), hồ sen (Lotus Pond) và các địa điểm đức Phật ngồi thiền sau khi thành đạo, v.v… Đây là một trong bốn địa danh nổi tiếng của lịch sử Phật giáo, là nơi Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) tu thành đạo và trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakya Muni), người sáng lâp ra giáo pháp Phật giáo.

    Chúng tôi đến cổng chính phía Đông của khu Bồ Đề Đạo Tràng, mới biết trùng ngày “Khai hội tụng niệm quốc tế Tipikata” (The International Tipikata Chanting Council) vào ngày 02 tháng 12 hàng năm – theo đề xuất của tổ chức Hòa bình Thế giới (World Peace). Tại đây lắp dựng các cổng chào, treo màn, kết hoa và giăng cờ Phật giáo nhiều màu sắc, thật lộng lẫy. Nhìn tổng thể, các tòa tháp chính xây bằng đá, riêng những hạng mục phụ trợ chủ yếu xây bằng gạch, sơn một màu hồng như muốn tạo sự nổi bật so với các công trình cổ xưa trong khu di tích. Bên trong sân rất đông tăng ni, Phật tử từ các nước tụ về, tạo bầu không khí sinh động của ngày lễ hội tôn giáo hơn là cảnh tĩnh lặng thường thấy của một khu di tích có từ muôn thế kỷ (Hình 3&4).

    (Hình 3&4)

    Qua khỏi cổng chính, mọi người đến nhà đón tiếp để gửi lại giày, dép, trình kiểm tra các túi xách, mua vé cho máy ảnh và máy quay phim (không tính phí cho di động), sau đó đi theo một trục dẫn bằng hệ thống bậc cấp, xuống thấp dần theo địa hình như lòng chảo. Tâm điểm là tháp Đại Giác (hình 2&3) với kiến trúc hình kim tự tháp nhọn, nằm giữa khu đất trũng, thấp so với cốt cổng chính khoảng 10m, nhưng với chiều cao tối đa khoảng 55m, nên đi từ xa đã nhìn thấy phần trên của tháp vươn lên mạnh mẽ như một điểm nhấn giữa lòng đô thị, có người còn ví hình tượng tháp mang ý nghĩa như một búp sen vươn mình giữa không gian xanh. Mặt ngoài tháp được chạm khắc tỉ mỉ và tinh xảo, với các họa tiết xếp hình theo hàng ngang như những đường diềm trang trí; nhiều chi tiết khắc lồi lõm tạo những hốc nhỏ đặt tượng Phật và các tượng Bồ Tát (Hình 5&6). Phần đế tháp là khối hình vuông, bốn cạnh rộng đều 15x15m, cao khoảng 12m; mặt trên cùng của khối đế có bốn tháp nhỏ ở bốn góc, hình dáng và cấu trúc tương tự tháp chính; từ đây thân tháp nhọn có đáy vuông thu nhỏ hơn diện tích khối đế, bốn góc vát đều lên đến đỉnh; trên đỉnh là một chóp tháp nhọn hình tròn, phần trên cùng được dát vàng – nghe nói bên trong có chứa xá lợi Phật (?).

    (Hình 5&6)

    Trong lòng tháp có ngôi đền thờ Phật Thích Ca (gọi là chùa Đại Giác Ngộ), để vào lễ Phật chỉ có một cửa duy nhất từ mặt chính phía Đông của Bảo tháp (Hình 7); không gian chánh điện có phần rộng hơn lối vào, nhưng cảm giác ngột ngạt do lượng người quá đông so với diện tích gian phòng, lại thiếu ánh sáng và thông thoáng tự nhiên. Giữa bức tường chính là tượng Thích Ca Mâu Ni được chiếu sáng nổi bật, đặt âm vào tường như trong một khung tranh khổng lồ (kích thước khoảng 3x4m, sâu 2m), phía sau là một phông vải màu xanh trời, bên ngoài lắp khung gỗ và tấm kính lớn. Tượng Phật bằng đá, dát vàng, cao tầm 2m, mặt nhìn ra hướng cửa vào, trên thân choàng lớp áo cà sa màu vàng, dáng ngồi thiền uy nghiêm và huyền diệu (Hình 8). Mỗi khi có đoàn khách hành hương muốn dâng tặng áo cho đức Phật, hai vị tu sĩ người Ấn làm lễ “dâng y” và mang xấp vải đi theo cửa bên trái để vào “lồng kính”, cao cách sàn 2m, họ khoác áo cho tượng rất thuần thục (đến lượt đoàn khác, xấp vải mới sẽ thay lớp vải trước – gọi là “đắp y” cho Phật); dòng người hành hương lần lượt chiêm bái xong sẽ quay vòng ra lối cửa vào. Do hàng ngày có hơn ngàn người đến viếng nên khó ai có thể nán lại lâu hơn để ngắm nhìn đức Phật, mặc dù được biết bức tượng này có trên 1.700 năm tuổi và chân dung tượng khá giống Thái tử Tất Đạt Đa lúc nhập thiền đắc đạo (?).

    (Hình 7, 8&9)

    Bước ra khỏi Chánh điện, chúng tôi gặp một đền thờ, vị trí bên trái và phía trước tháp Đại Giác (nhìn từ ngoài vào); bên trong có ba bức tượng ngồi thiền được giới thiệu là tượng vua cha Suddhodana (Tịnh Phạn) ở giữa, hai tượng còn lại gồm bà Maya Devi là mẹ ruột và bà Mahapajapati (Kiều Đàm Di) là dì ruột, đồng thời là mẹ kế của Thái tử Tất Đạt Đa (do hoàng hậu mất sau khi sinh bảy ngày, người em ruột được tiến cử hoàng hậu và bà nhận làm dưỡng mẫu cho con của chị mình). Cả ba bức tượng đều được khoác vải thờ theo tục lệ của Ấn Độ giáo (Hình 9), phía trên có bức tượng nhỏ hình Thích Ca Mâu Ni (vì cả ba người đều đã quy y Phật). Nhìn gian thờ rất hẹp, thiếu sáng, người đến lễ chỉ đứng hoặc quỳ trước cửa đền và nhìn vào, nên dòng người thường vội đi qua, có lẻ phần lớn họ ngại dừng lại sẽ ảnh hưởng đến dòng người đi sau.

    Tôi đi về phía Đông, trước mặt tháp Đại Giác có một tháp nhỏ, ghi dấu nơi đức Phật nói lời tạ ơn cây Bồ đề đã chở che trong những ngày thiền định (Hình 10). Phía Nam là một tháp nhỏ khác (Hình 11) kỷ niệm nơi đức Phật tu chứng được “tứ thiền” – nghĩa là bốn cấp độ nhập thiền (theo kinh Sa Môn Quả trong Trường Bộ Kinh); một trụ đá của vua Asoka (A Dục) được lắp dựng một phần thân trụ và có rào sắt bảo vệ bao quanh (Hình 12); cuối cùng là hồ Muchalinda, còn gọi là hồ sen, có một tượng Phật lộ thiên giữa hồ (nhưng không thấy sen trong hồ), với hình thần rắn khổng lồ dùng thân quấn quanh bệ ngồi và dùng đầu làm lộng che cho Ngài lúc tọa thiền (Hình 13).

    (Hình 10, 11&12)

    Tôi đi vòng ra mặt sau tháp, về hướng Tây là cây Bồ đề, cách tường đế tháp khoảng 4-5m. Cội gốc rất to, thân-cành-nhánh đều vươn khỏe, cao từ gốc lên đỉnh khoảng 15m, với tán lá xum xuê xanh tốt, đủ che mát cả một khoảnh sân rộng cho các tăng, ni và Phật tử đang ngồi thiền, cầu nguyện và tưởng niệm về đức Thế Tôn (Hình 14). Với tiếng lâm râm đọc kinh và khấn nguyện của nhiều thành phần, nam nữ, dân tộc, đến từ nhiều quốc gia, bằng những ngôn ngữ khác nhau, tạo ra một âm vực đa chiều đậm chất tín ngưỡng và huyền diệu quanh cội Bồ đề thiêng liêng. Chung quanh cây có ba cạnh tường rào bằng gạch, đá và lan can sắt, cao tầm 7m, áp sát mặt tường tháp Đại Giác. Toàn bộ mặt ngoài rào được chạm khắc nổi những hình người (là các vị thần), động vật (sư tử, ngựa, voi) và hoa sen, được choàng các dây hoa trang trí rất trang trọng. Bên trong rào có một phiến đá vuông (2x2m, cao 0,6m), phủ vải đỏ và làm lộng che trông uy nghiêm như chỗ nghỉ của một vì vua – gọi là “Tòa Kim Cương” (Hình 15); bên ngoài là một tảng đá đen khắc hình dấu chân – được cho là của đức Phật (?). Tại vị trí Tòa Kim Cương, Thái tử Tất Đạt Đa ngồi thiền, mặt hướng về phía Đông (lúc đó chưa có tháp Đại Giác), lưng quay về phía cây Pipala (Tất Bát La), sau 49 ngày đêm thiền định đã đạt đến sự giác ngộ chân lý, trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni.

    (Hình 13, 14&15)

    Sau khi đắc đạo, Ngài dành bảy tuần tiếp theo để tĩnh tâm suy nghĩ về sự giác ngộ. Ngoài cây Bồ đề, còn có sáu vị trí khác được cho là nơi đức Phật tọa thiền trong khu Bồ Đề Đạo Tràng – xem sơ đồ theo website phatgiao.org.vn, lập tháng 7/2013 (Hình 16). Tôi lưu ý ba trong số bảy vị trí, gồm: Vị trí số 5 (Ajapala Nigrodha), vào tuần thất thứ năm Ngài ngồi thiền dưới gốc cây Nigrodha – là loại cây đa đặc biệt của Ấn Độ mà những người chăn cừu (Ajapala) thường lui tới, có tên khoa học là Ficus Benghalensis (Hình 17). Vị trí số 6 (hồ Muchlinda, còn gọi là hồ sen), vào tuần thất thứ sáu Ngài ngồi thiền dưới gốc cây Mucalinda – là loại cây đước của vùng nước ngọt, có tên khoa học là Barringtonia Acutangula (Hình 18), Việt Nam còn gọi là “cây Lộc vừng”. (Tương truyền rằng: khi đức Phật ngồi thiền dưới cội cây này gặp một trận mưa bão trong nhiều ngày, rắn thần Naga bò đến uốn mình quấn quanh bệ ngồi thành bảy vòng và dùng đầu che cho Ngài khỏi bị ướt – từ đó, rắn thần có tên là Mucalinda). Vị trí số 7 (Rajayatana), vào tuần thất thứ bảy Ngài ngồi thiền dưới gốc cây Rajayatana – là loại cây bản địa thường dùng làm thuốc trong y học cổ truyền của người Ấn, có tên khoa học là Buchanania Cochinchinensis (Hình 19), thuộc họ “đào lộn hột” (Anacardiaceae).

    (Hình 16, nguồn: Internet)

    (Hình 17, 18 & 19, nguồn: Internet)

    Đây là ba loại cây mà đức Phật ngồi thiền sau khi đắc đạo, để suy nghĩ về con đường “hoằng pháp” (đi giảng đạo) sắp đến, nhưng chỉ có cây Pipala tại vị trí số 1, nơi Ngài ngồi thiền đạt giác ngộ và thành Phật mới được gọi là cây “Bodhi” (âm tiếng Việt là “Bồ đề”) – vì nghĩa của nó là “tỉnh thức, giác ngộ”. Đây là loại cây thuộc dòng “cổ thụ” có rất nhiều tại Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam, với quả nhỏ và lá hình trái tim (Hình 20), có tên khoa học là Ficus Religiosa. Hiện nay, cây Bồ đề được trồng tại nhiều nơi trên thế giới, nếu xác định có cội nguồn chiết xuất từ cây Bồ đề gốc tại Bồ Đề Đạo Tràng (Hình 21) mới được nhìn nhận là “hậu duệ” lưu truyền qua bao đời của “cội Bồ đề linh thiêng” (Holy Bodhi Tree), bởi sự tồn tại và phát triển của nó là cả một câu chuyện huyền thoại, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển khu Phật tích này…

    (Hình 20&21. Nguồn: Internet)

    Tìm về cội nguồn lịch sử huyền thoại

    Theo lịch sử Phật giáo: Vào khoảng năm 594 trước công nguyên (TCN), Thái tử Tất Đạt Đa lúc này đang là một nhà tu khổ hạnh, bị kiệt sức ngất lịm tại bãi cát bên sông Neranjara (Ni Liên Thiền) – nay là sông Phalgu, thuộc làng Uruvela, bang Bihar, Ấn Độ. Ngài được cô gái Sujata dâng bát sữa kịp lúc cứu tỉnh nên cảm thấy cơ thể dần hồi phục. Ngài nhận ra con đường khổ hạnh là bế tắt nên đến bờ sông khấn nguyện “Nếu ta đạt được giác ngộ rốt ráo thì bát này hãy trôi ngược dòng sông”. Lạ thay, khi Ngài ném bát sữa vừa chạm nước thì chiếc bát nổi lên và trôi ngược dòng một đoạn trước khi chìm xuống đáy sông. Ngài quyết định bước xuống dòng sông để tắm rửa cho thân sạch và lội qua bờ bên kia tìm chỗ tọa thiền. Tại đây, Ngài ngồi dưới gốc cây Pipala (Tất Bát La) và đón nhận bó cỏ của chàng trai chăn bò tên Kusa dâng cúng để mong Ngài an tâm tu tịnh. Ngài đắc chánh đạo, trở thành đức Thích Ca Mâu Ni lúc 30 tuổi (vào ngày 8/12 âm lịch); từ đó cây Pipala được gọi tên là “Bồ Đề”, nhưng tên “Bồ Đề Đạo Tràng” mãi đến thế kỷ XVIII mới chính thức đặt tên cho khu Phật tích này.

    Tương truyền rằng: Vào khoảng năm 250 TCN, vua A Dục thuộc vương triều Mauryan (Ma Ta Ga) của nước Ấn Độ xưa (làm vua từ năm 35 tuổi và mất năm 73 tuổi, tức từ năm 269 TCN-232 TCN) có tâm nguyện đi hành hương qua các vùng Phật tích. Ông đến làng Uruvela (còn có các tên khác là Mahabodhi, Vajrasana, Sambodhi) và cho xây dựng một ngôi đền mang tên “Đại Giác Ngộ” để kỷ niệm nơi đức Phật thành đạo. Lúc này, cội Bồ đề vẫn còn sống, nên hàng ngày ông chăm sóc cẩn thận và cho xây rào bảo vệ cao 3m, đồng thời chiết cành nhân giống cây để gửi đi nhiều nơi trong nước. Nhưng không ngờ, chính quý phi của vua là bà Tissarakkha đã cho người lén chặt hạ và thiêu hủy cây Bồ đề nguyên thủy. Vua A Dục đã cho trồng lại từ một nhánh cây mà trước đó – vào năm 247 TCN – ông đã cho chiết cành gửi tặng vua Devanampiya Tissa (Thiên Ái Đế Tu) thuộc xứ Sri Lanka (xưa gọi là Tích Lan) – nay là đảo quốc Sri Lanka, thuộc phía Nam nước Ấn Độ.

    Vào thế kỷ thứ 2 TCN, ngôi đền và cây Bồ đề thứ hai bị phá hủy trong cuộc sát hại Phật giáo của vua Pushyamitra Shunga. Sau này, cây Bồ đề thứ ba được trồng lại nhưng rồi cũng bị vua Sasanka, thuộc xứ Ganda (trị vì từ năm 590 đến 625), ra lệnh chặt hạ và đốt bỏ gốc vào khoảng năm 600. Đến năm 620, cây Bồ đề thứ tư được vua Purnavarama (Phú Lâu Na Bạt Ma) của xứ Maghada (Ma Kiệt Đà) – là người nối dõi cuối cùng của triều vua A Dục – cho trồng lại và xây bức tường bảo vệ bao quanh cao 7m như ngày nay (ngài Huyền Trang, tức Đường Tam Tạng, có mô tả cây này trong nhật ký hành trình vào thế kỷ thứ 4 và thứ 7). Cây tồn tại khoảng 600 năm, vào năm 1220, một lần nữa cây Bồ đề lại bị triệt hạ cùng với tháp Đại Giác bởi đội quân Hồi giáo khi xâm chiếm Ấn Độ. Cây Bồ đề thứ năm lại hồi sinh từ một chồi non mọc lên tại nơi gốc cây cũ bị tàn phá và phát triển nhanh chóng, nhưng đến năm 1876, cây này bị chết khô và gãy đổ trong một cơn bão. Vào năm 1881, ngài Alexander Cunningham (một Đại tướng người Anh) lấy hạt giống từ quả của cây Bồ đề thứ năm và trồng lại chính nơi cây bị ngã. Từ đó về sau, các chồi non của cây Bồ đề thứ sáu tiếp tục nảy nở, kế thừa mạch sống của các cây Bồ đề tổ tiên phát triển bền vững đến nay. Điều kỳ lạ, qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí cây Bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng vẫn giữ nguyên như lúc Thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật. Hiện nay, cây Bồ đề tại Ấn Độ là đời “hậu duệ” thứ sáu của “cội Bồ đề linh thiêng” (từ thời vua A Dục) và đến nay tròn 139 năm tuổi (1881-2020).

    Về “nhánh cây Bồ đề gửi tặng vua Sri Lanka”: Sau khi được con gái vua A Dục, tức Tỳ kheo ni Sanghamitta (Tăng Già Mật Đa), mang sang Sri Lanka kết hợp mục đich xin thành lập Ni đoàn Phật giáo, nhánh cây này được nhà vua cho trồng tại Mahamegha, cố đô Anuradhapura và cây phát triển xanh tốt thành một cội cây to. Đến nay, cây đã trải qua 2.267 năm nhưng vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka quý trọng xem là quốc bảo, gọi là “Jaya Sri Maha Bodhi” – nghĩa là “Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường”. Từ đó đến nay, rất nhiều chồi non hoặc nhánh được chiết ra từ cây Bồ đề tại thánh tích Mahamegha – Sri Lanka và gửi đi trồng tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam (gần đây nhất là ngày 22/7/2018, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ rước cây Bồ Đề do Chủ tịch Quốc hội Sri Lanka trao tặng và trồng tại chùa Tam Chúc – thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; trở thành cây “hậu duệ” đời thứ ba do được lấy từ cội cây Sri Lanka, có cội nguồn từ gốc cây Bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng).

    Trở lại câu chuyện “ngôi đền Đại Giác Ngộ” của vua A Dục: Sau khi đền bị phá hủy, vào thế kỷ thứ 3 TCN, vua A Dục có “sắc lệnh” cho xây dựng lại Bảo tháp để tưởng nhớ nơi đức Phật thành đạo. Quần thể kiến trúc (gồm tháp Đại Giác, Tòa Kim Cương, tường rào bảo vệ cây Bồ đề) đã trải qua nhiều lần trùng tu và kiến tạo dưới nhiều triều đại Phật giáo khác nhau, hoàn thành vào thế kỷ thứ 7, dưới triều đại Gupta. Nơi đây đã trở thành “trái tim của văn hóa Phật giáo” trong vài thế kỷ, cho đến khi nó bị quân Hồi giáo đánh chiếm vào thế kỷ 12. Đến thế kỷ 14, các triều vua Miến Điện cho trùng tu lại Bảo tháp và Bồ Đề Đạo Tràng trở thành thánh địa của tín đồ Ấn Độ giáo, thuộc quyền sở hữu của các hàng đạo sĩ Ấn; thậm chí vào năm 1590, có một vị đạo sĩ Ấn giáo là Mahant Ghamandi Giri tự xưng là “Người kế thừa Bồ Đề Đạo Tràng”. Sau đó, khu Phật tích tại làng Aruvela lại rơi vào quên lãng và tháp Đại Giác dần trở nên hoang phế do chịu nhiều tác động bởi điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.

    Hơn hai thế kỷ sau, năm 1811, một nhà khảo cổ người Anh là Buchanan Hamilton đã phát hiện ra tháp Đại Giác trong tình trạng đổ nát, bị chôn vùi dưới lòng đất. Đến năm 1875, vua Mindon Min của Miến Điện xin phép chính phủ Anh (do Ấn Độ đang là nước thuộc địa) cho trùng tu lại tháp; nhưng giai đoạn đầu của việc sửa chữa bị dừng lại do không thực hiện đúng theo truyền thống (?). Năm 1880, ngài Asley Eden – Phó thống đốc Bengal, truyền lệnh cho J.D. Beglar tiến hành khai quật; đồng thời giao ông tổ chức xây dựng lại hoàn toàn ngôi Bảo tháp dựa trên vị trí ngôi đền ngày xưa từ thời vua A Dục, với sự cố vấn trùng tu của ông Cunningham và Tiến sĩ Rajendra Lal Mitra. Vào năm sau (1881), Beglar phát hiện ra bệ đá – được gọi là “Tòa Kim Cương” và cho phục hồi di tích xá lợi của đức Phật được lưu giữ tại đó (có thể là trên chóp tháp như mọi người kể lại chăng ?).

    Cuộc trùng tu này đựơc chính phủ Anh ở Ấn Độ đảm trách trong hai năm (1880-1881), với phương thức cho khôi phục lại hình thức như nó từng tồn tại từ thời trung cổ. Đây là công việc phức tạp và đòi hỏi sự đầu tư lớn về nhiều mặt, để hầu hết chi tiết từ các bản vẽ mô phỏng ngôi đền và Bảo tháp nguyên thủy (được cho là xây dựng vào thời đại Maurya, khoảng năm 317 TCN-180 TCN) trở nên hiện thực và chính xác. Từ đó có được công trình tháp Đại Giác như ngày nay và được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào ngày 27/6/2003, đưa khu Bồ Đề Đạo Tràng vào danh sách di tích văn hoá thế giới.

    Hiện thân của di tích và phát triển du lịch

    Khái quát cội nguồn lịch sử khu Bồ Đề Đạo Tràng và đối chiếu với thực tế cho thấy có một “khoảng mở” nhất định từ huyền thoại đến hiện thực. Tôi thấy còn thiếu nhiều thông tin từ những nhà khảo cổ, hoặc nếu có thì còn một số khác biệt so với lịch sử của chính nó. (Ví dụ: khi Thái tử Tất Đạt Đa đắc đạo thành Phật tại cây Bồ Đề, lúc đó không có tháp Đại Giác vĩ đại; Ngài ngồi thiền trên bó cỏ tươi đơn sơ và thân thiện, không phải phiến đá to với lộng che sang quý như hiện nay; trụ đá của vua A Dục được phục dựng trong khu di tích nhưng chưa thấy rõ dấu ấn của nó đối với di tích và ngay trong lịch sử Phật giáo cũng chưa thấy đề cập; tảng đá có dấu chân đức Phật chưa có cơ sở khoa học chứng minh nguồn gốc; hồ sen (hay hồ Mucalinda) thiếu cây Mucalinda tại vị trí tượng Phật và việc Ngài tọa thiền giữa “hồ sen” là không giống như trong lịch sử được tương truyền…). Chưa kể một số hạng mục được xây thêm, dù quy mô nhỏ hay tạm bợ, xét về tổng thể đã có sự tranh chấp về không gian quy hoạch và kiến trúc công trình (giữa cũ/mới), góp phần làm “mờ nhạt” giá trị của thánh tích từ quá trình khảo cổ đến cội nguồn lịch sử huyền thoại và hiện thân của di tích được quảng bá.

    Xem lại các tài liệu, tôi nhận thấy hai vấn đề: 1) Khu Phật tích Bồ Đề Đạo Tràng là di tích Phật giáo, nhưng hiện nay phần lớn thành viên của Hội đồng quản trị là người theo Ấn Độ giáo và giữ vai trò quan trọng trong hệ thống quản trị – được quy định bởi Luật về Bồ Đề Đạo Tràng do chính phủ bang Bihar ban hành ngày 19/6/1949. 2) Chính quyền và những nhà chính trị Ấn giáo chủ trương thu hút khách hành hương để phát triển “du lịch tâm linh”, hơn là quảng bá sâu rộng giá trị di sản văn hóa cội nguồn của Phật giáo (đây là nhận định của giới chức Phật giáo tại Ấn Độ). Chưa biết thực hư như thế nào, nhưng có lẻ do chưa có sự thống nhất cao nên việc trùng tu và tôn tạo khu di tích không được chú trọng định hướng quy hoạch ban đầu, từ tổng thể khu vực bao quanh di tích đến chi tiết mặt bằng bên trong khu đất.

    Theo tôi, giữa ba trục mấu chốt (gồm: bảo tồn di tích, quảng bá tín ngưỡng tôn giáo và phát triển du lịch tâm linh) cần có một điểm chung là tôn trọng bản chất gốc của di tích theo dòng thời gian của sự kiện có tính giá trị lịch sử. Tôi đề xuất ý kiến sau: 1) Giới hạn phạm vi thời gian của di tích từ lúc Thái tử Tất Đạt Đa ngồi thiền dưới cội cây Bồ đề đến khi quần thể khu Phật tích được kiến tạo hoàn chỉnh vào thế kỷ thứ 7, các giai đoạn xuất hiện sau đó có thể thuyết minh qua bảng công bố quá trình hình thành di tích. 2) Việc tô đậm giá trị sự kiện những thánh tích từ các triều đại vua A Dục là cần thiết, nhưng nên làm rõ sự khác biệt của sự kiện lịch sử so với giá trị tự thân của di tích (ví dụ: tháp Đại Giác vĩ đại và ngôi đền thờ Phật trong lòng tháp, bệ đá “Tòa Kim Cương” thay cho hình tượng “bó cỏ”, xây dựng tường rào bảo vệ bao quanh cây Bồ đề có giá trị trong lịch sử triều đại vua A Dục). 3) Việc quy hoạch xây dựng khu Phật tích cần mở rộng ranh giới nghiên cứu, gắn với tổng thể cả một vùng đô thị bao quanh, nơi mà hiên nay đang hình thành một “Liên hiệp quốc Phật tự” của nhiều nước châu Á (Việt Nam có bốn chùa), để thấy mối tương quan bảo tồn phạm vi cốt lõi của di tích và định hướng phát triển đô thị, hướng đến một “thành phố di sản văn hóa tôn giáo đặc thù”, gắn với phát triển kinh tế “du lịch tâm linh” bền vững?.

    Với một ngày ngắn ngũi, tôi chỉ đi-nhìn-thấy và được nghe kể trong khả năng tiếp nhận giới hạn của một du khách hành hương nên không thể nào nhanh chóng thấu hiểu mọi điều. Tôi bắt đầu tìm-đọc-hiểu từ nhiều nguồn tài liệu để hiểu rõ hơn về cội nguồn lịch sử một khu di tích có màu sắc tôn giáo như Bồ Đề Đạo Tràng. Có rất nhiều góc nhìn khác nhau từ quan điểm, nghề nghiệp của người viết (hướng dẫn viên du lịch, du khách, tu sĩ, nhà văn hóa…) và xuất phát từ nhiều nguồn dữ liệu – trực tiếp hay gián tiếp – nên có những độ chênh về sự kiện, địa danh và số liệu trong các bài viết hoặc phim ảnh hiện có trên các trang mạng xã hội. Tôi cố gắng gạn lọc, thẩm định, kết hợp nghiên cứu với trải nghiệm thực tế, để có một góc nhìn riêng của một người để tâm nghiên cứu về bảo tồn và phát triển di tích – di sản kiến trúc. Vì vậy, bài viết này không tránh khỏi chủ quan, chỉ mong qua trao đổi sẽ có được những bài học kinh nghiệm và giải pháp tốt hơn nhằm giúp ích cho chuyên môn…

    Nguồn: Tapchikientruc

    0 Bình luận
    Update data ...