Diễn đàn

Kiến trúc phong cách Đông Dương nhìn từ thủ pháp tạo hình – Kỳ 1

Đánh giá: (Tốt) (Báo cáo) - Người đăng: Admin_03 (Đạt)

Tìm hiểu một tác giả hay một xu hướng thiết kế kiến trúc để đúc rút những bài học kinh nghiệm là một việc làm thường xuyên của giới nghiên cứu và KTS. Trong số rất nhiều những bài học kinh nghiệm từ đấy, thủ pháp tạo hình luôn là yếu tố hấp dẫn nhất đối với công chúng nói chung và giới chuyên môn nói riêng, vì nó cung cấp cho họ đủ những yếu tố trực quan để bày tỏ sự tán dương hoặc là phê phán. Để thiết thực hưởng ứng phương châm khai thác giá trị tạo hình từ kiến trúc truyền thống như là những đặc tính tiêu biểu của văn hóa Việt trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi nhận thấy những thủ pháp tạo hình của Kiến trúc Phong cách Đông Dương là rất đáng để tìm hiểu sâu hơn nữa sau rất nhiều những ấn phẩm đã công bố.

Dẫn nhập

Với những người làm nghệ thuật nói chung và kiến trúc nói riêng, thủ pháp tạo hình là những kỹ năng họ luôn phải trau dồi, tìm kiếm và học hỏi, để đề xuất những sáng tạo và tạo nên “dấu ấn” của cá nhân. Việc sao chép những khuôn mẫu có sẵn cũng đòi hỏi phải có thủ pháp tạo hình thích hợp để không sa vào tình trạng “nệ cổ”.

Thủ pháp tạo hình tác động trực tiếp lên hình thức thông qua các yếu tố cụ thể của kiến trúc như: Hình thức tổ hợp không gian thể hiện trên mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, kết cấu chịu lực, kết cấu (bao che và mái), cấu kiện cấu tạo, chủ đề và hình thức của chi tiết trang trí, tỉ lệ, hình khối, thông gió, chiếu sáng, vật liệu xây dựng, màu sắc… Như vậy, thủ pháp tạo hình có tính công cụ và luôn thay đổi; còn yếu tố tạo hình là những đối tượng chịu tác động của thủ pháp tạo hình và có tính ổn định (có thể được xem là hằng số của kiến trúc). Do đó, việc tìm hiểu về thủ pháp tạo hình tất yếu cần phải được tiến hành dựa trên những phân tích liên quan đến yếu tố tạo hình trong kiến trúc như đã dẫn ở trên.

HÌNH 1a. 1907-Đại học Đông Dương – Mặt đứng chính thiết kế từ Pháp
Nguồn: Internet

1. Khái quát những nghiên cứu liên quan

Những nghiên cứu mang tính khoa học được thực hiện đầu tiên vào đầu thế kỷ 20, dưới sự bảo trợ của chính quyền đô hộ Pháp là bộ bản vẽ Relevés de Monuments Anciens du Nord Vietnam, 1959 của Bezacier là nguồn tài liệu quí giá cho những nhà nghiên cứu Nghệ thuật – Kiến trúc Việt Nam sau đó.

Sách “Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam” (1961, tái bản 2020) của Ngô Huy Quỳnh, “Kiến trúc cổ Việt Nam” (1991) của Vũ Tam Lang, “Kiến trúc Việt Nam qua các triều đại” (2002) của Nguyễn Đình Tòan, “Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp” (2006) của Phan Ngọc… có tính tổng hợp và hệ thống hóa những kiến thức văn hóa – lịch sử cho các thể loại đề tài nghiên cứu liên quan như bài viết này.

Luận án PTS năm 1988 – “Các xu hướng kiến trúc ở Việt Nam cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20” của Tôn Thất Đại nhấn mạnh về các biểu hiện xu hướng kiến trúc. Luận án TS năm 1998 – “Những nhân tố tự nhiên và truyền thống văn hóa bản địa trong kiến trúc thời Pháp thuộc ở Việt Nam” của KTS Nguyễn Đình Tòan chú trọng vào những nhận định cho rằng sự xuất hiện của Kiến trúc Phong cách Đông Dương là do nhu cầu khắc phục những nhược điểm của kiến trúc Cổ điển kém thích ứng với điều kiện tự nhiên và văn hóa truyền thống của bản địa. Khía cạnh thủ pháp tạo hình do đó không hề được đề cập. Lợi ích lớn là hai luận án đã cung cấp khá tòan diện về bối cảnh kinh tế – văn hóa – xã hội các thập niên 1920 -1945 ở Đông Dương, mở ra cho những nghiên cứu tiếp theo những góc nhìn mới liên quan sâu đến công việc của nhà thiết kế.

Các bài báo “Những phong cách chủ đạo trong kiến trúc Hà Nội thời Pháp thuộc” (2009) của KTS Trần Quốc Bảo chủ yếu miêu tả và nhận dạng, nhưng còn thiếu các phân tích và đánh giá về thủ pháp tạo hình của Kiến trúc Phong cách Đông Dương.

“Kiến trúc Đông Dương”, 2013 của KTS Lê Minh Sơn đã trình bày khá đầy đủ thông tin, ảnh chụp, bản vẽ… các Kiến trúc Phong cách Đông Dương, nguồn tài liệu này chủ yếu cung cấp thông tin tra cứu mà chưa nêu lên được những đánh giá và đúc kết mang tính học thuật.

Nhìn chung, các công trình đã công bố nêu trên không trùng lặp với hướng nghiên cứu về thủ pháp tạo hình của Kiến trúc Phong cách Đông Dương.

HÌNH 1b. 1907-Đại học Đông Dương – Thiết kế của Charles Lichtenfelder – Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia

HÌNH 1c. 1921-Đại học Đông Dương – Mặt đứng theo KTS trưởng Cơ quan Công trình Dân dụng 

HÌNH 1d. 1922-Đại học Đông Dương – Mặt đứng theo KTS phó Paul Sabrié -Nguồn: [10]

2. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

  • Phương pháp Lịch sử/ So sánh giúp khám phá những thủ pháp tạo hình trong kiến trúc từ các nguồn tư liệu lịch sử sơ cấp như: Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam, Trung Hoa và của Phương Tây (Cổ điển và Hiện đại), các tư liệu văn hóa Việt Nam, tư liệu hình ảnh thu thập được từ các chuyến khảo sát thực địa…;
  • Phương pháp Quy nạp, Diễn dịch giúp tìm hiểu các hiện tượng kiến trúc đã từng diễn ra trong thực tế lịch sử, từ đó nêu lên các giả thiết nghiên cứu và suy luận về tính chất tương đồng và dị biệt trong các thủ pháp tạo hình mà các KTS đã thực hiện ở Đông Dương giai đoạn 1920 – 1940. Nhận ra mối liên hệ có tính bản chất giữa các sự vật, hiện tượng riêng lẻ trong Kiến trúc Phong cách Đông Dương là một thao tác rất quan trọng để kiến giải các mục tiêu nghiên cứu;
  • Phương pháp Phân tích và Tổng hợp là những phương pháp thông thường để có thể rút ra những kết luận phù hợp cho kết quả của đề tài.

3. Những kết quả nghiên cứu

3.1. Tư tưởng chủ đạo trong thủ pháp tạo hình của Kiến trúc Phong cách Đông Dương

3.1.1. Á Đông hóa hình thức bố cục cổ điển phương Tây

Những diễn biến trong quá trình thiết kế và điều chỉnh tòa nhà chính Đại học Đông Dương (1923-1925) như sau:

  • Bản thiết kế đầu tiên được gửi từ Pháp sang mang phong cách Tân Cổ điển. [H. 01a]
  • Năm 1907, chánh Sở Kiến trúc Trung ương là KTS Charles Lichtenfelder điều chỉnh lần thứ Nhất, có một số thay đổi theo hướng Á Đông hóa: Đã thay thế tháp đèn (lantern) trên đỉnh mái trong bản vẽ gửi từ Pháp sang bằng một tháp phù đồ (kiểu stupa), phần thân của khối tháp được nâng cao và thêm thắt một số chi tiết mái vẩy của kiến trúc Á Đông trên các cửa sổ… Trong khi thức cột Cổ điển Ionic bị xóa bỏ thì vòm mái ở trung tâm vẫn được giữ lại với vai trò là chủ thể, có khối tích khổng lồ đủ để chi phối tòan thể bố cục của mặt đứng. [H. 01b]
  • Năm 1921, KTS trưởng Cơ quan công trình dân dụng đề nghị khôi phục kiểu cột Cổ điển Ionic và thêm rất nhiều bức tượng trang trí còn rườm rà hơn cả thiết kế ban đầu gửi từ Pháp. [H. 01c]
  • Năm 1922, các KTS Charles Lacollonge và Paul Sabrié đã đề xuất xây dựng công trình Đại học Đông Dương trở lại theo hình mẫu kiến trúc Tân Cổ điển. [H. 01d]
  • Khoảng cuối 1922, KTS Hernest Hébrard đã cho tạm dừng thi công để có thời gian nghiên cứu việc lồng ghép những yếu tố văn hóa Á Đông trên cái nền của kiến trúc Tân Cổ điển.
  • Từ năm 1923, Hébrard là Giám đốc Sở Kiến trúc và Quy hoạch đô thị, ông càng tỏ rõ sự cương quyết trong ý đồ thay đổi hình thức kiến trúc của tòa nhà theo hướng Á Đông hóa. Ban đầu, việc điều chỉnh của ông còn khá dè dặt, nhưng quan trọng nhất là các thức cột Cổ điển đã hoàn tòan bị loại bỏ và được thay thế bằng những mảng tường đơn giản và bề thế.
  • Năm 1924, thiết kế do hai đồng sự của Hébrard vào năm 1924 cơ bản vẫn là sự hoàn nguyên mẫu kiến trúc do Charles Lichtenfelder lập năm 1907 [H. 01e, H. 01f]. Điều này rõ ràng là chưa đáp ứng được tư tưởng, nguyên tắc nghệ thuật và ý chí cách tân của Hébrard vì phong cách Tân Cổ điển vẫn chiếm ưu thế.

HÌNH 1e. 1924-Đại học Đông Dương – Mặt bằng tầng trệt – Nguồn: Lê Thanh Sơn

HÌNH 1e. 1924-Đại học Đông Dương – Mặt đứng theo Charles Lacollonge – Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia

HÌNH 1k. Đại học Đông Dương – Mặt đứng chụp năm 2010 – Nguồn: Lê Thanh Sơn

Cho đến giữa năm 1924, Hébrard vẫn không ngừng tìm kiếm những thủ pháp tổ hợp hài hòa nhất trong điều kiện thúc bách cả về tài chính cũng như sự phản đối việc thay đổi quá nhiều và tiến độ chậm trễ trong triển khai công trình. Những công văn trao đổi, các thông báo về thay đổi kích thước, đơn thư khiếu nại của chủ thầu do bị dừng thi công và sự chậm trễ giao bản vẽ chính thức, việc phá hủy một phần công trình đã cho thấy những khó khăn nhiều mặt mà vị KTS này phải đối diện. Tuy vậy, ông vẫn tiếp tục yêu cầu trợ thủ là KTS Gaston Roger sửa đổi bản vẽ nhiều lần, để đạt cho bằng được điều mà ông quan niệm là “Style Indochinois – Phong cách Đông Dương”, tuy mới chỉ ở dạng dạng thai nghén. [H. 01g, H. 01k]

Cuối cùng thì Tòa nhà chính ĐH Đông Dương cũng được hoàn thành, hình thức của nó đã cho thấy những nỗ lực không mệt mỏi của Hébrard, chấm dứt những tư duy lỗi thời muốn kéo dài sự hiện diện của kiểu kiến trúc từ Cổ điển cho đến Tân Cổ điển phương Tây ở Việt Nam, đồng thời báo hiệu cho sự xuất hiện ngoạn mục của một phong cách kiến trúc mới. Điều này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc hướng nền kiến trúc Việt Nam mới đến với một lối tư duy vừa cách tân, vừa hợp thời.

Phong cách Kiến trúc Đông Dương được nhận biết trên cơ sở kết hợp giữa các kiểu mẫu của kiến trúc phương Tây với các kiểu thức, motif trang trí của kiến trúc truyền thống ở Đông Dương (mà nhiều khi do sự “ngộ nhận” đã kết hợp với cả một vài yếu tố của kiến trúc Trung Hoa). Dẫn chứng những yếu tố mới xuất hiện trên cái nền của một kiến trúc Tân Cổ điển trong những thủ pháp tạo hình có chừng mực và đạt hiệu quả của Hébrard:

  • Hình dạng mái lợp ngói hình “bát giác” thay thế hoàn tòan mái dạng vòm của phong cách Tân Cổ điển, đánh dấu một quyết định to lớn của Hébrard về mặt phong cách;
  • Những chi tiết cấu tạo như: Hệ console dạng tam đấu – tam cung, mái vẩy thẳng thay vì cong như trước… đã được xử lý hợp lý về công năng và không gây cảm giác lấn át dáng vẻ đường bệ của hình khối kiến trúc chủ thể;
  • Các diềm đầu tường có trang trí kiểu hồi văn chữ Vạn là một nét mới trong phương diện tạo hình các công trình công cộng vào thời điểm đó.

3.1.2. Tối đa hóa công năng của bố cục cổ điển

Hai kiểu tư duy kinh viện của Beau Arts, chú trọng bố cục và Kiến trúc Hiện đại – chú trọng công năng, đã đem lại cho các KTS người Pháp những kết quả sáng tạo đặc sắc. Đó là tính chặt chẽ trong bố cục hình khối và hợp lý trong sắp đặt các thành phần công năng của Kiến trúc Phong cách Đông Dương. Việc kết hợp giữa hai yếu tố bố cục hình khối và yêu cầu sử dụng giúp giảm thiểu tính cứng nhắc của kiến trúc kinh viện cũng tính khô khan của công năng. Sự gắn đặt, lồng ghép các yếu tố văn hóa truyền thống Á Đông một cách chừng mực trên bề diện của các tòa nhà đã tạo nên một dáng vẻ hòa nhập rất tốt vào khung cảnh chung của miền nhiệt đới, nóng ẩm.

Trụ sở Sở Tài chính và Trước bạ Đông Dương (1925 – 1931) có mặt bằng đối xứng hình chữ H theo kiểu mẫu kinh điển. Giữa hai khối nhà làm việc là không gian phụ trợ bao gồm các chức năng sảnh kết nối và cầu thang. Phương thức này kết hợp hoàn chỉnh giữa kiểu mẫu kinh điển và chức năng, đảm bảo cho hình thức của kiến trúc không bị gò bó, giả tạo trong biểu hiện về phong cách.

Những yếu tố của văn hóa truyền thống Á Đông như dáng mái, mái vẩy, hồi văn… được vận dụng như một phương thức tạo hình hữu hiệu chỉ nhằm gợi nhắc đến khía cạnh cơ bản nhất của nó là chức năng chứ không phải là sự sao chép nguyên mẫu. Thật vậy, hình thức kiến trúc này đã mang lại ấn tượng bao trùm của một công trình khiêm nhường trong kiểu dáng phương Đông nhiều hơn là vẻ uy nghi của một công trình kinh điển Pháp. Đáng chú ý là việc xử lý nhuần nhuyễn, tinh tế các chi tiết kiến trúc bản địa đã vượt lên trên sự sao chép máy móc như thường gặp.

Tóm lại, sự vững chắc, ổn định của bố cục cổ điển và yếu tố công năng là nền tảng của những giá trị và thành công trong thủ pháp tạo hình của Kiến trúc Phong cách Đông Dương mà không thể chỉ căn cứ vào số lượng và hình dáng của những cấu kiện, yếu tố cấu tạo, chi tiết trang trí… của văn hóa – kiến trúc Á Đông trên đó.

3.1.3. Hội nhập hóa yếu tố văn hóa – kiến trúc Đông -Tây

Những năm tiếp theo, Hébrard đã chủ động hơn trong gắn kết các yếu tố văn hóa – kiến trúc phương Đông và phương Tây trong các thiết kế của mình.

  • Nhà thờ Cửa Bắc (1925-1930) khẳng định vị thế chủ đạo của hình thức một nhà thờ phương Tây. Những yếu tố văn hóa – kiến trúc Á Đông được chọn lựa không quá nhiều, ngoại trừ kiểu mái chồng diêm có khối tích rất khiêm tốn trên lối vào tháp chuông, ô trang trí hình bát giác trên mặt đứng transept.

HÌNH 2. Nhà Thờ Cửa Bắc – Nguồn: Lê Thanh Sơn

  • Nguyên tắc xây dựng trụ sở công quyền (Trụ sở Sở Tài chính và Trước bạ Đông Dương) khẳng định sự chú trọng sự đối xứng nghiêm ngặt, đề cao yếu tố công năng và dáng vẻ uy nghi đường bệ của những khối tích đồ sộ. Những kiểu cách của kiến trúc Á Đông: Hình thức hệ mái dốc nhiều lớp và mái vẩy… luôn được Ernest Hébrard sử dụng như một phương thức ưa thích [H. 03]. Điều này luôn được lặp lại trong các thiết kế khác của Hébrard như: Hotel Royal de Phnom Penh (1927), Trường Petrus Ký (1927), Bảo tàng Louis Finot (1928-1932), Viện Pasteur (1930)…

HÌNH 3. 1928-Trụ sở Sở Tài chính và Trước bạ Đông Dương – Nguồn: Internet

Tóm lại, nguyên tắc chỉ đạo trong các thiết kế của Hébrard cho thấy những kiểu cách của kiến trúc Á Đông được sử dụng một cách chủ động, có tính chọn lọc, không quá tràn lan, tôn trọng công năng sử dụng, không thiên lệch về việc sao chép nguyên bản. Hệ mái dốc với nhiều lớp mái đa dạng cũng không hề câu nệ một cách miễn cưỡng hình thức réo cong tại các góc mái như thường thấy trong đình, chùa Việt.

Khác với cách tiếp cận của Hébrard, một KTS Pháp khác là Arthur Kruze lại thiên về lối thiết kế nệ cổ bằng những bộ mái giống với những ngôi đình chùa truyền thống nổi tiếng của Việt Nam. Lối thiết kế này thiếu vắng sự dày công nghiên cứu với tinh thần cách tân và các thủ pháp biến tấu, cách điệu tương ứng. Rất nhiều công trình kiến trúc được thiết kế trong thời kỳ sau Đổi mới (1986) ở nước ta cũng đang lặp lại những hạn chế nệ cổ này. Điều này càng cho thấy những quan điểm và cách tiếp cận của Hébrard chứa đựng những ý nghĩa tiến bộ và thiết thực.

3.2. Thủ pháp tạo hình trên các yếu tố kiến trúc phương Tây

3.2.1. Thể loại kiến trúc và bố cục tổng thể

Kiến trúc thời thuộc địa ở Việt Nam trước hết là để phục vụ bộ máy cai trị của người Pháp, vì vậy mà thể loại và bố cục tổng thể có ảnh hưởng quyết định đến những thủ pháp tạo hình trên đó.

Về thể loại, sự đa dạng loại hình tất yếu dẫn đến sự phong phú cho khung cảnh kiến trúc, những tiền lệ này là điều mà các đô thị ở nước ta chưa thấy. Tuy nhiên, mỗi loại hình kiến trúc lại đòi hỏi những hình thức và thủ pháp tạo hình khác nhau. Chẳng hạn, Nhà thờ Cửa Bắc hiển nhiên phải có hình thức khác với Khách sạn Hotel Royal de Phnom Penh, Trường Petrus Ký cần phải có hình thức sự khác biệt với Bảo tàng Louis Finot. Ngay cả những công trình thuộc cùng một thể loại cũng vẫn có nhiều yêu cầu khác nhau về hình thức, trước hết là từ sự khác nhau của hình thể, vị trí mỗi lô đất xây dựng đưa đến hoặc do qui mô cụ thể của chúng khác nhau.

Kiến trúc Phong cách Đông Dương thường sử dụng một số dạng bố cục tổng thể quen thuộc của Chủ nghĩa Cổ điển trong việc thiết kế cả mặt bằng và mặt đứng với hình dạng đối xứng qua trục trung tâm, mặt bằng phân chia theo niêm luật (rules) để đạt được nhịp điệu cân xứng theo qui tắc lồi – lõm và đặc – rỗng…

Sự phong phú của bố cục tổng thể còn được gia tăng bởi sự thịnh hành của kiến trúc Hiện đại khi đó với những dạng mặt bằng và mặt đứng bố cục tự do theo yêu cầu công năng. Nhà thờ Cửa Bắc (1925-1930) và Bảo tàng Louis Finot (1928-1932) là sự kết hợp giữa hai kiểu đối xứng và bất đối xứng, như là những đột phá mới về thủ pháp tạo hình.

3.2.2. Qui mô, tỉ lệ khối tích công trình

Các công trình Kiến trúc Phong cách Đông Dương đều được xây dựng theo thiết kế của các KTS người Pháp, nên về mặt qui mô và tỉ lệ khối tích công trình thì những quan niệm của nghệ thuật kiến trúc phương Tây vẫn ảnh hưởng lên tư duy nghề nghiệp của họ như một tinh thần chủ đạo.

  • Về mặt qui mô: So với phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, kiến trúc phương Tây thường có qui mô to lớn, đồ sộ, đặc biệt là về số tầng cao của mỗi công trình. Qui mô to lớn của các kiến trúc này góp phần làm nên một cái nhìn mới lạ về tính hiện đại của công trình. Nó khu biệt với qui mô khiêm nhường của hầu hết các kiến trúc truyền thống của phương Đông, vốn bị giới hạn bởi vật liệu và kỹ thuật xây dựng phổ thông như: Gỗ, gạch, ngói… Cũng chính vì vậy mà “vẻ đẹp” toát lên từ những tòa kiến trúc này luôn hướng người thưởng lãm tới những giá trị thẩm mỹ chuẩn mực, vốn được đảm bảo theo quan niệm của phương Tây.

Ở khía cạnh kiến tạo, những bức tường to lớn, đồ sộ, với độ dày từ 30 cho đến 80 cm, luôn tạo nên hiệu quả mỹ quan đặc biệt vì hệ thống các ô cửa sổ, cửa đi cũng to lớn, đồ sộ không kém, nhưng được “ẩn” sâu sau những mảng tường dày. Hiệu ứng mỹ quan trên bề mặt kiến trúc càng gia tăng khi người ta nhận thấy sự cộng hưởng giữa những ô cửa thụt sâu trong những bức tường dày với hệ thống mái vẩy vươn xa ngoài mặt tường tạo nên những bóng đổ lớn, đem lại cảm giác dịu mát nhiều hơn, chống chọi với khí hậu oi nóng, ẩm ướt và nhiều mưa của xứ Đông Dương.

  • Về mặt tỉ lệ: Chiều cao thông thường của mỗi tầng nhà trong các công trình Kiến trúc Phong cách Đông Dương đều có kích thước đặc biệt từ 4.5 – 8m/ tầng nhà, trong vài trường hợp kích thước này có thể lên tới 20m/ tầng nhà, như sảnh chính của Trường Đại học Đông Dương, Bảo tàng Louis Finot, Bảo tàng Viện Blanchard de la Bross…

Với chiều cao vượt trội (chiều cao tầng thông thường > 4.5 m), một ngôi nhà của Kiến trúc Phong cách Đông Dương sẽ cao lớn hơn hẳn so với một ngôi nhà trong phố thị của người Việt. Điều này khá thuận lợi cho việc gắn đặt những chi tiết kiến tạo hoặc trang trí có đủ không gian và diện tích bề mặt để sắp đặt, bố cục mà không gây nên sự miễn cưỡng, gượng ép. Hiệu ứng thị giác mang lại là nhiều chi tiết trang trí bản địa được trích dẫn nhưng không gây nên sự rối rắm hoặc gò bó.

3.2.3. Nội thất một số công trình tiêu biểu

Việc duy trì tỉ lệ không gian lớn theo quan điểm của kiến trúc phương Tây cũng rất thuận lợi cho các KTS Pháp khi tiếp tục triển khai phần thiết kế nội thất. Phần lớn các không gian này được tổ chức theo lối thông tầng, có chiều cao bằng ba đến bốn tầng nhà, mục tiêu thường là lấy ánh sáng từ trên đỉnh mái thông qua cấu trúc của lồng đèn (lantern).

Đại sảnh của Trường Đại học Đông Dương cao hơn 30 mét thông suốt từ nền sảnh lên vòm trần (dome), trong đó tầng trệt cao bằng hai tầng (13m), trang trí bằng các hình cuốn cung nguyên La Mã kết hợp với kiểu kiến tạo Byzantium. Bên trên đó (tầng ba) là một hành lang hình tròn có gắn dãy cột kép Doric với chút cải biên, đỡ các cuốn dãy (arcade) La Mã bên trên. Các cuốn dãy này tạo thành kết cấu chính chống đỡ một vòm bán cầu (dome – tương đương tầng thứ tư). Các hình thức kiến tạo nêu trên hoàn tòan là những kiểu cách đặc trưng của kiến trúc phương Tây, ngoại trừ những hình vẽ trang trí ít ỏi theo motif văn hóa Á Đông (trái bầu quấn dây).

Đại sảnh của Bảo tàng Louis Finot bao gồm một không gian thông suốt cao 18.5 mét từ nền lên trần sảnh (được thiết kế theo lối ô cờ). Điểm khác nhau là các cột thân tròn với đầu có tai kiểu Á Đông ở bên ngoài nhà được tái hiện cùng với các cột kép ở dãy hành lang bên trong đó. Để đạt được tỉ lệ phù hợp với không gian sảnh, những nhóm cột này được bố trí giống nhau trên mỗi tầng theo phương thức chân cột tầng trên (cao 5m) đặt trùng với đầu cột tầng dưới (cao 5m) thông qua một dải đà BTCT.

Đại sảnh của Bảo tàng Viện Blanchard de la Bross là một không gian có chiều cao 22 mét, mặt bằng hình bát giác có tám cây cột tròn bằng BTCT khổng lồ vượt từ nền lên trần sảnh, trên đầu cột có gắn một console hình đấu – cung gắn với trần nhà. Kiến tạo này tuy chỉ có tính trang trí, nhưng là một cách để tạo nên sự hài hòa với các motif văn hóa Á Đông khác đã được sử dụng trên gờ chỉ các mảng tường và gạch nền nhà.

Tóm lại, hình thức nội thất các tòa nhà của Kiến trúc Phong cách Đông Dương cho thấy yếu tố nghệ thuật cổ điển phương Tây chiếm tỉ trọng áp đảo từ giải pháp kết cấu, bố cục không gian, tổ chức chiếu sáng, thông gió và các motif văn hóa, trang trí… Yếu tố nghệ thuật truyền thống Á Đông chỉ chiếm tỉ trọng khiêm tốn và không phải là chủ đạo. Thậm chí, các không gian còn lại trong các công trình nêu trên hoàn tòan là tính thực dụng của Chủ nghĩa Công năng.

Ở điểm này, việc đánh giá những thành tựu của Kiến trúc Phong cách Đông Dương cho thấy cần dựa trên nền tảng của nghệ thuật kiến trúc phương Tây hơn là chỉ tập trung vào việc mô tả và đề cao một cách phiến diện những motif văn hóa, trang trí truyền thống Á Đông được gắn đặt trên đó.

Đón đọc kỳ 2: Thủ pháp tạo hình trên các yếu tố văn hóa Á Đông

Theo PGS.TS.KTS Lê Thanh Sơn

Kiến Việt

Bình luận chủ đề

0 Bình luận

Bài viết liên quan

    Nơi làm việc hay ngôi nhà thứ hai?

    Nơi làm việc hay ngôi nhà thứ hai?

    13/02/24 25 0

    Văn phòng 4DH2 Design, nơi kiến trúc gặp gỡ nghệ thuật và cảm xúc, mang đến một không gian làm việc độc đáo và đầy cảm hứng. Tại đây, sự...

    Bản hoan ca của đời sống

    Bản hoan ca của đời sống

    13/02/24 26 0

    Trước hết, căn nhà là một công trình cải tạo tương đối phức tạp với diện tích 600m2 khá lớn, và cũng vì việc thay đổi khá nhiều những không gian...

CHỦ ĐỀ TƯƠNG TỰ

    Bản hoan ca của đời sống

    Bản hoan ca của đời sống

    13/02/24 26 0

    Trước hết, căn nhà là một công trình cải tạo tương đối phức tạp với diện tích 600m2 khá...

    Văn phòng FPT telecom

    Văn phòng FPT telecom

    13/02/24 33 0

    FPT Telecom là nhà cung cấp dịch vụ viễn thông và internet hàng đầu tại Việt Nam trên...

    Nhà mới với vật liệu cũ

    Nhà mới với vật liệu cũ

    13/02/24 24 0

    Trước một căn nhà nhỏ tường xây gạch mộc, mái tranh, một người bạn của tôi kể về...

    NƠI TÌNH YÊU QUAY VỀ

    NƠI TÌNH YÊU QUAY VỀ

    20/11/23 51 0

    Mỗi ngôi nhà được xây dựng đều là một câu chuyện của kiến trúc sư, nhà thiết kế...
Update data ...